Dân tộc Việt Nam và nghệ thuật uống trà
Trong giai đoạn từ 13 đến thế kỷ 15,
người Việt Nam tin rằng trà mang nhiều giá trị triết học, vì nó là nguồn tinh
khiết của tinh thần. Đọc sách và tiêu thụ chè đã được nhiều học giả Việt Nam lựa
chọn như là một phương tiện để thoát khỏi những mối quan ngại nhỏ nhặt của đời
sống hỗn độn, để đạt được sự giác ngộ và an tâm. Uống trà đã được cho là giúp cải
thiện tính cách của một người, đánh bóng cách của mình, và đánh giá cá tính của
mình. Những người uống trà tập trung được coi là có cách cư xử tốt, trong khi
các nghệ nhân chè có khả năng đổ trà vào bát xếp thành vòng tròn mà không bị
tràn giọt được các đồng nghiệp ngưỡng mộ.
Phong cách uống
trà của Việt Nam rất đa dạng và không có tiêu chuẩn cố định và truyền đạt một
cách sáng tạo ngôn ngữ của người dân. Qua thời gian, chè dần dần có chỗ đứng
riêng trong cuộc sống hàng ngày của người dân, quý tộc và những người bình thường,
sống trong thành phố và ở nông thôn.
Trà tại nhà
Bên cạnh các
buổi lễ đặc biệt như lễ cưới, tang lễ hay các nghi lễ truyền thống khác, trà được
phục vụ nhiều lần mỗi ngày tại mỗi nhà của Việt Nam. Thức dậy vào buổi sáng,
nhiều người cao tuổi thích uống một tách trà nóng nóng trước khi bắt đầu một
ngày mới với hy vọng làm mới và lắng nghe. Hàng hiên hoặc sân vườn ở sân sau là
một trong những nơi ưa thích nhất để trà thưởng thức sự gần gũi của nó với
thiên nhiên, như một số không khí trong lành có thể cho thêm hương vị cho trà.
Văn hóa dùng trà Việt - dân ta hầu như dùng trà trong mọi hoàn cảnh, mọi nơi |
Người Việt
Nam tin rằng trà kết hợp mọi người và bày tỏ lòng hiếu khách; Vì thế mọi người
thường mời bạn bè hoặc hàng xóm của họ đi chơi trò chuyện trên một cốc trà. Trà
cũng được sử dụng để làm dịu những cuộc cãi cọ nóng lên bằng cách pha loãng cơn
giận của một người. Hơn nữa, uống trà sau bữa ăn, đặc biệt là bữa tối, cũng là
một thói quen mà rất nhiều người yêu thích, khi các thành viên trong gia đình
có thể tập trung, nói về những gì họ đã làm trong ngày.
Bôi ( chèn trà) và Bình ( ấm trà ): Chèn trà thường dùng chén cỡ hột
mít hay mắt trâu, bình trà thì có bình chuyên và bình tống. Trước khi pha trà
thì dùng nước sôi để tráng chén và bình, tưới nước lên bình trà, rồi đổ nước ấm
lên các chén trà để làm nóng và sạch. Cho trà vào ấm phải vừa đủ lượng
(cho ít quá thì nhạt, còn cho nhiều quá thì đắng chát). Rót nước pha
trà vừa ngập mặt trà rồi đổ đi để “rửa trà”: Tửu tam trà nhị (rượu
chén đến thứ ba mới bắt đầu ngấm, trà nước thứ hai mới ngon). Sau đó
rót nước gần đầy bình và đạy nắp, rồi rót thêm lên trên nắp bình một ít nước
nóng để giữ được hương trà. Đợi khoảng 1-2 phút để trà chín và rót ra để thưởng
thức.
“ Ngũ quần anh ” là người thưởng trà, bạn trà. Bạn trà
khó tìm hơn bạn rượu, có được bạn trà là có được người hiểu mình, là tri kỷ.
Rót trà ra mời bạn cũng cần lưu ý, nếu có chén tống ( là chén to nhất ) thì rót
ra chén tống trước rồi chia ra các chén quân. Còn nếu không có chén tống, rót
thẳng vào chén quân thì rót lần lượt ít một vào từng chén, rồi xoay vòng
rót ngược lại. Như thế, các chén trà đều đậm đà như nhau. Khi rót
thì thấp tay một chút cho dòng nước chảy vào chén. Tất cả các giai đoạn
thưởng trà từ chọn nước, chọn trà, pha trà và rót trà đều phản ánh văn hoá truyền
thống và tinh hoa dân tộc Việt Nam, được gìn giữ hàng ngàn năm nay.
Rượu ngâm
nga, trà liền tay: Mời trà thì mời từ
người lớn tuổi nhất, cũng giống như mời ăn uống bình thường. Trà rót cũng rót từ
chén của người lớn tuổi nhất, chè rót ra phải uống ngay khi còn nóng.Tay nâng
ly trà, nhấp từng ngụm nhỏ, thưởng thức trà bằng tất cả tâm hồn,
bằng những cảm xúc giác quan, mắt nhìn, mũi ngửi, tai nghe, lưỡi
nếm, tay cầm. Hương vị trà truyền thống đọng lại ở cổ sau khi uống cũng như
văn hoá dân tộc mãi còn đọng lại trong mỗi con người Việt Nam.
Nhận xét
Đăng nhận xét