Giới thiệu đôi nét hoa văn của gốm cổ tàu Cù Lao Chàm
Các đồ gốm cổ được phục hồi từ vụ đắm tàu Cù Lao
Chàm không chỉ phong phú về các loại vật thể mà còn trong phong cách và những
hình ảnh được miêu tả trong đồ trang trí. Có vẻ như thiên nhiên và xã hội đã
hoàn toàn biến đổi thành nghệ thuật gốm sứ thông qua tay các nghệ sĩ đương đại
tài năng. Trong khi chủ đề con người hiếm khi được trình bày trong gốm Việt
Nam, bộ sưu tập này cho thấy nhiều hình ảnh khác nhau của người dân về cuộc sống
hàng ngày của họ.
Ảnh 1. Cổ vật gốm Cù Lao Chàm |
Nét nổi bật của gốm Cù Lao Chàm không
thể không nhắc đến đó là hoa văn họa tiết trên gốm. Trong một số hoa văn họa tiết,
ta có thể thấy hình ảnh của cuộc sống hằng ngày của người dân được miêu tả
trong một phong cảnh thanh bình và phong phú. Một hoặc hai ngôi nhà có mái che che
giấu đằng sau những ngọn núi; Nông dân trên đường về nhà mang theo thiết bị làm
nông của họ sau một ngày khó làm việc trên đồng ruộng.
Khoanh đối tượng tư liệu khảo sát là
như thế, song bài viết này cũng không có tham vọng thống kê được toàn bộ hoa
văn trang trí gốm trong tàu, bởi chúng phong phú đến mức, cả Tống Trung Tín và
tôi, trong báo cáo của mình, đã từng nhận xét: “hoa văn trên sưu tập gốm Cù Lao
Chàm là phong phú nhất, đa dạng nhất, với nhiều đề tài mới lạ và vô cùng đẹp mắt”
Nói như thế, xin được một dịp khác, với
độc giả, quay lại đề tài này kỹ lưỡng và chu đáo hơn. Ở đây, tôi chỉ dám lướt
nhìn các loại đề tài, theo đó, phân tích bút pháp trang trí, may chăng có đôi
điều đóng góp vào cách nhận nhìn gốm Việt Nam thời Lê Sơ mà bao lâu nay, chưa mấy
ai đề cập.
I- Điểm đôi nét về hoa văn trên gốm Cù Lao
Chàm.
Gốm hàng hoá trên tàu cổ Cù Lao Chàm
được đa số thống nhất là sản phẩm của các lò gốm thuộc các trung tâm gốm Hải
Dương. Nói một cách cụ thể, đó là gốm của lò Chu Đậu, Mỹ Xá, Thăng Long.
Cho đến nay, còn có hai loại ý kiến về
niên đại đồ gốm trên tàu. Học giả người Anh, Joh Guy, cho niên đại sưu tập này
là nửa cuối thế kỷ XV. Tống Trung Tín, Vaxiliep, tôi và một số nhà nghiên cứu
Việt Nam cho rằng, chúng có niên đại vào nửa đầu của thế kỷ ấy. Lý do thì có
nhiều, kể cả từ hai phía, nhưng, bài viết này, chỉ gợi mở, để độc giả cùng suy
nghĩ và cũng là sự bắc nối cho những nhận định dưới đây về hoa văn trang trí,
nên niên đại tàu chỉ là một tiêu chí tham khảo mà thôi.
Gốm tàu cổ Cù Lao Chàm không chỉ có
hoa lam, dù gốm hoa lam là chủ yếu, bên cạnh đó còn có gốm độc sắc (men lam
xám, men trắng, men nâu, men caladon) và gốm men nhiều màu. Kể cả men nhiều màu
cũng như men độc sắc, đều có hoa văn trang trí, tuy kỹ thuật có khác nhau. Chi
tiết của từng loại hoa văn được thể hiện trên từng loại men sẽ không được đề cập
cụ thể, cho dù, có sự khác biệt đáng quan tâm. Dẫu vậy, ở đây, tôi xin được bàn
nhiều tới hoa văn trên gốm men nhiều màu và gốm men trắng vẽ lam.
Có thể nói khái quát rằng, hoa văn
trên hai loại gốm này của tàu cổ Cù Lao Chàm bao gồm hai kỹ thuật, vẽ lam dưới
men trắng, nung nặng lửa và vẽ màu trên men trắng, nung nhẹ lửa. Đề tài thể hiện
trên hai loại gốm này khá đa dạng, có thể tóm tắt như sau:
– Đề tài con người được coi là khá hiếm
hoi trong phổ hệ gốm Việt Nam nói chung, gốm men trắng vẽ lam thời Lê nói
riêng, thì với sưu tập này, lại khá phong phú. Có thể khẳng định được rằng, đây
là sưu tập giàu có nhất từ trước tới nay về đề tài con người ta được biết. Đó
là các vị nam thần, nữ thần, tiên ông, tiên bà, những quý tộc trong lầu son gác
tía, các cụ già thả câu, chèo thuyền, các trai tráng quản tượng, những chiến
binh, những trẻ em nô đùa, cưỡi trâu thổi sáo…
– Đề tài động vật được thể hiện dưới
hai dạng thức, đó là những con vật linh: rồng, lân, rùa, phượng và những con vật
có thật trong đời thường như sư tử, voi, hổ, ngựa, trâu, bò, khỉ, hươu, chim đại
bàng, vẹt, chích choè, chào mào, sáo, bói cá, vịt, thiên nga, chim sâu, dơi…
– Ở đây, chúng ta cũng còn gặp các loại
côn trùng được tả thực rất sinh động: ong, bướm, chuồn chuồn…
– Rồi, cũng ở đây, còn có sự hội tụ của
các loài thủy sinh được miêu tả, theo tôi là ấn tượng nhất, qua những nét vẽ cực
kỳ phóng khoáng, nhưng chi tiết đến lạ lùng. Rắn, cá chép, cá măng, cá trê,
tôm, cua, ếch… đều được đặt trong bối cảnh sinh thái, nên sống động và hấp dẫn.
– Đề tài phong cảnh sơn thuỷ cũng được
thể hiện khá đa dạng: nhà cửa, chùa tháp, cung điện, cầu cống, sông nước, mây
trời… Rất nhiều trong số đó như những trường cảnh của một cuốn phim: Một người
phụ nữ đang tắm, khuất lấp sau một bụi cây, xa xa là một chú nhóc trèo lên cây
ngó nhìn trộm và một người đàn ông ngoảnh mặt, đưa quần áo cho người phụ nữ
đang tắm với thái độ và cử chỉ quá vụng về. Rồi một “đám cưới trên sông” với một
nam, một nữ ngồi trên thuyền. Chiếc ô rộng xoè chở che cho đôi uyên ương quá
giang. Còn rất nhiều, rất nhiều những cảnh tương tự mà tôi chỉ đưa ra đôi ba dẫn
dụ để làm cơ sở cho những nhận xét ở phần sau.
– Đề tài hoa lá, cây cối chiếm số lượng
nhiều hơn cả. Đó là hoa sen, hoa cúc, hoa mẫu đơn, tùng, mai, cúc, trúc và các
loại cây cổ thụ, được thể hiện khi thì phóng khoáng kể cả trên bố cục cũng như
nét vẽ, khi thì khuôn cứng trong các băng hẹp, khi thì tỉa tót đến chi tiết. Những
loại cây hoa lá ấy, không có nhiều sự lạ lẫm trong đồ án, mà rất phổ biến trên
gốm vẽ lam Việt Nam.
Điểm đặc biệt đáng lưu ý ở sưu tập gốm
Cù Lao Chàm là, chúng ta chỉ thấy hoa văn men lam vẽ dưới men nung nặng lửa được
thể hiện sinh động trong đề tài cũng như nét vẽ. Những màu vàng, màu xanh lục,
màu đỏ nâu vẽ trên men dường như không tham gia vào bố cục và đề tài như một
thành phần chủ yếu, mà đó chỉ là những
đường viền điểm xuyết để tạo nên sự sang trọng, nhưng lại càng làm cho đề tài
thêm khuôn cứng vào những đường viền ấy. Đây là một đặc điểm của gốm men nhiều
màu Việt Nam, so với Trung Quốc, ít nhất nhìn từ sưu tập gốm Cù Lao Chàm. Đặc
biệt, cũng ở sưu tập này, men màu còn có sự tham gia của vàng kim, được vẽ
thành những mảng khối, để tạo nên những cánh sen, chủ yếu cũng chỉ là những đường
viền trang trí cho hoạ tiết chính yếu là men lam. Cách thể hiện này một mặt làm
cho gốm đa sắc Việt có thêm sự cao sang, quyền quý, nhưng một mặt khác, lại làm
cho tính phóng khoáng, bay bướm vốn thường thấy trên hoa văn gốm Việt, bị khô cứng
vì phong toả từ những đường viền. Đây lại là một đặc điểm phổ biến của trang
trí gốm men vẽ vàng kim, bởi một lẽ, vàng là một nguyên liệu quý hiếm, không thể
sử dụng như một màu sắc chủ đạo của các loại hoa văn.
Có thể chắc chắn rằng, tôi chưa nhìn
thấy men màu nung nặng lửa trong sưu tập gốm Cù Lao Chàm. Đây cũng là một hiện
tượng mà gốm men Trung Quốc đồng thời ít thấy. Ở Việt Nam, thời Mạc, và đặc biệt
là thời Nguyễn, gốm men nhiều màu nung nặng lửa mới xuất hiện nhiều.
Như vậy, hoa văn trên gốm men nhiều
màu tôi đã có đôi dòng phân tích, cũng chỉ là một sự lướt qua, để độc giả có một
khái niệm đầy đủ hơn về kỹ thuật thể hiện hoa văn trên sưu tập gốm này và vài lời
miêu tả để thấy đôi nét đặc biệt về kỹ thuật cùng sự phổ quát của đồ án không
có mấy sự lạ lẫm, để phần viết dưới đây sẽ dành chủ yếu cho sự phân tích phong
cách trên gốm men trắng vẽ lam.
II- Phong cách trang trí hoa văn trên gốm Cù
Lao Chàm.
Hà Văn Cẩn, trong luận án tiến sĩ của
mình, khi nói về gốm Việt Nam trong giai đoạn này, anh có đưa ra một khái niệm
mới lạ, thuần Việt, đó là phong cách thoáng và phong cách chặt. Sự thoáng và chặt
ở đây có lẽ bao hàm cả hoạ tiết và bố cục. Chắc cũng chẳng có gì sai. Thế
nhưng, thuật ngữ hội hoạ truyền thống Đông Phương nói chung và trên gốm nói
riêng, cũng tương tự khái niệm này, người ta dùng công bút và phóng bút. Dường
như với hai thuật ngữ ấy, người ta quan tâm nhiều tới nét vẽ, tới phong cách vẽ.
Có thể bố cục của một đồ án hoa văn rất chặt, thậm chí, khuôn cứng là đằng
khác, nhưng trong đó, người ta vẫn dùng lối vẽ phóng bút, hoặc ngược lại, đồ án
có thoáng rộng, hoạ sĩ vẫn có thể dùng lối công bút để biểu đạt. Nói như thế,
tôi vẫn thích và ưa dùng khái niệm truyền thống xưa nay.
Trong sưu tập gốm cổ Cù Lao Chàm thể
hiện khá rõ hai phong cách này. Có những đồ án vẽ cảnh người phụ nữ tắm, như
tôi đã trích dẫn trên đây, và nhiều đồ án vẽ sơn thuỷ, tùng đình, tam hữu, cá
chim, với những nét tỉ mỉ, li ti như sợi tóc được biểu đạt trên những hiện vật
rất nhỏ, khuôn trong những hình tròn, ô vuông chữ nhật… Song, cũng là vẽ cảnh,
vẽ người, mà hội hoạ truyền thống Trung Quốc ưa dùng lối công bút, thì nhiều hiện
vật của gốm Cù Lao Chàm, dùng lối vẽ phóng bút để diễn tả. “Đám cưới trên
sông”, đạo sĩ hay chim chích choè, thiên nga…, chỉ bằng đôi ba nét, đã tạo nên
một bức tranh sinh động. Tôi ưa nhìn và xúc động trước những tác phẩm ấy hơn.
Dường như công bút không thích hợp với người Việt và đó cũng là một nhược điểm
bởi kỹ thuật nung, chất liệu men quy định.
Khảo sát men lam trên sưu tập gốm cổ
Cù Lao Chàm, tôi thấy có hai loại, một là lam Hồi, có màu xanh như mực Cửu
Long, được nghệ nhân sử dụng phổ biến cho lối vẽ công bút, bởi lam Hồi có ưu Việt
là không bị nhoè, không bị chảy khi nung ở nhiệt độ cao. Trong khi ấy, một loại
men lam xanh đen, mà người Trung Quốc coi đó là nội địa, hay bị nhoè, bị chảy,
nên không thích hợp với lối vẽ này, do đó, sử dụng chủ yếu để vẽ phóng bút.
Có thể đây chỉ là nhận xét mang tính
phổ biến, nhưng với thợ thủ công Việt, lam Hồi vẫn được sử dụng để phóng bút,
mà rất nhiều tác phẩm trong sưu tập Cù Lao Chàm tôi đã thấy. Tuy nhiên, màu lam
xanh đen được sử dụng triệt để hơn trong lối vẽ này.
Với hai lối vẽ trên đây, đã có không
ít nhà nghiên cứu ở trong và ngoài nước bảo rằng, đó là hai truyền thống riêng
biệt giữa gốm Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam ưa phóng bút. Trung Quốc có truyền
thống công bút. Và, cũng bởi thế, họ cho rằng, rất nhiều những sản phẩm gốm Việt Nam xuất khẩu hoặc cung đình,
hoàng tộc có lối vẽ công bút, do thợ gốm Trung Quốc làm. Lý do lịch sử được viện
dẫn, bởi nhà Minh bế quan toả cảng (“Thốn bản bất hạ hải”), nên rất nhiều thợ từ
Trung quốc sang Việt Nam làm thuê hoặc mở lò sản xuất, tạo điều kiện cho ngành
nghề thủ công làm gốm của Việt Nam phát triển và hàng hoá gốm chiếm lĩnh thị
trường thế giới ở thế kỷ XV – một thế kỷ hoàng kim của gốm sứ Đại Việt. Lý do
hiện vật, họ lấy chiếc bình gốm Việt Nam nổi tiếng ở Thổ Nhĩ Kỳ, có niên đại
Thái Hoà (1450), có minh văn nói về người phụ nữ họ Bùi vẽ chơi, mà chính bà là
thợ gốm Trung Quốc di cư xuống Việt Nam, đến vùng Hải Dương để biểu diễn tài vẽ
của mình.
Tương tự ý kiến này, các nhà nghiên cứu
gốm Úc Châu, khi đến làm việc ở Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, có xem chiếc bình gốm
mà Nguyễn Đình Chiến và Diệp Đình Hoa cho là của thời Nguyên, còn tôi thì cho
là của Việt Nam sản xuất, có niên đại và hoa văn trang trí giống như bình
Istambun, thì họ đã đồng ý về niên đại và xuất xứ chiếc bình, song cho đó là sản
phẩm của thợ gốm Trung Quốc.
Có lẽ trong chúng ta, không mấy ai phủ
nhận mối quan hệ, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa các trung tâm sản xuất gốm
đương thời và trong mối giao lưu ấy, tần số phát sóng của các trung tâm gốm
Trung quốc có thể mạnh hơn, khiến cho cả gốm Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam,
Thái Lan… chịu ảnh hưởng. Nhưng, đó ắt không phải là sản phẩm trực tiếp của người
thợ gốm Trung Quốc. Nhìn sưu tập gốm cổ Cù Lao Chàm, lối vẽ rất Việt dường như
được thể hiện rất đậm trên từng tiêu bản tôi đã nhận ra, kể cả phong cách lẫn
thể tài trang trí.
Trước hết, nói về phong cách, tôi có
thể đưa ra hàng loạt ví dụ, để thấy rằng, ngay cả trên những sản phẩm vẽ công
bút, nếu được coi là truyền thống vẽ Trung Quốc, thì tính quy chuẩn trong các đồ
án hoa văn không cao. Đây lại dường như là một đặc điểm rất nổi trội trên gốm cổ
Việt Nam. Cũng có người bảo rằng, sự thiếu quy chuẩn ấy, không thể lấy các sản
phẩm lò quan Cảnh Đức Trấn để so sánh, mà gốm Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng từ
gốm Quảng Đông (Trung Quốc) và những sản phẩm ấy là của thợ gốm Quảng Đông vẽ.
Tôi chưa có mấy sự so sánh với gốm Quảng Đông đồng thời với sưu tập này, nhưng
muộn hơn đó chút ít, cách vẽ của gốm Quảng Đông hoàn toàn khác. Tính bảo lưu và
truyền thống sao dễ thay đổi được!
Cũng thuộc về phong cách, tôi thấy gốm
sứ Trung Quốc tuân thủ chặt chẽ luật viễn cận (xa gần), bởi thế, mỗi tác phẩm của
họ như một bức tranh của một hoạ sĩ. Trên những bức tranh ấy, các nhân vật được
thể hiện khá chi tiết, mang tính giải phẫu của hội hoạ hiện đại. Thế nhưng,
trên rất nhiều đồ gốm Cù Lao Chàm, cũng là những bức tranh, yếu tố ước lệ dường
như vẫn là nét hằng xuyên của nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Ở đây, ta còn gặp
những tác phẩm không hề tuân thủ luật xa gần, không có không gian ba chiều, khiến
cho chúng ta ngờ ngợ đó là những bức tranh dân gian của Đông Hồ, Kinh Bắc. Thật
khó có một tư liệu để chứng minh nguồn gốc của những bức tranh dân gian kia là
từ đây hoặc sớm hơn thế, nhưng phong cách thể hiện ấy, không thể phủ nhận sự giống
nhau giữa chúng. Tuy nhiên, không phải tất cả gốm cổ Cù Lao Chàm được thể hiện
như thế, cũng có nhiều bức tranh vẽ theo nguyên tắc của luật viễn cận, song nội
dung đề tài lại hoàn toàn mang tính dân gian.
Có thể đưa ra một ví dụ rất điển hình,
đã được giới thiệu, đó là cảnh người phụ nữ đang tắm. Đây là một loại đề tài ta
chỉ thấy trong nghệ thuật dân gian. Và, trên không ít những mảng điêu khắc gỗ
đình làng Việt đương thời, cũng thể hiện nhiều cảnh sinh hoạt dân gian, mà một
trong những tác phẩm tiêu biểu là cảnh phụ nữ tắm trong đầm sen, được giới nghệ
thuật cho đó như là một sự hoà quyện giữa nghệ thuật tôn giáo với nghệ thuật
dân gian, để tạo nên một truyền thống nghệ thuật Việt, khó phân biệt đâu là
cung đình, đâu là dân gian, đâu là tôn giáo.
Dân gian thì ở đâu mà chẳng có. Nghệ
thuật gốm sứ ngoài cung đình của Trung Quốc cũng rất nhiều. Thế nhưng, những cảnh
như thế này trên gốm sứ xuất khẩu, có lẽ chỉ thấy ở Việt Nam.
Dường như trong sưu tập gốm Cù Lao
Chàm, mặc dù có rất nhiều tiêu bản vẽ sơn thuỷ, phong cảnh, tùng đài, song
không hề thấy một nguyên mẫu nào của tích cổ Trung Hoa, trong khi ấy, ở Trung
Quốc đương thời, tích Tam Quốc diễn nghĩa, Thuỷ Hử… là những đề tài thường được
khai thác tối đa. Cũng vậy, trên gốm Cù Lao Chàm có “tam hữu”, “tứ quý”, “tứ
linh”, nhưng cách diễn tả, bố cục không hề giống chút nào với gốm Trung Hoa
cũng thể hiện những đề tài tương tự.
Tôi có thể trích dẫn ra đây rất nhiều
tiêu bản để độc giả thấy được những yếu tố đặc trưng gốm Việt bên cạnh những
thành tố ảnh hưởng Trung Hoa. Nhưng, những ảnh hưởng ấy không thể biến chúng
như là những sản phẩm của người thợ gốm Hoa làm trên đất Việt. Đó chính là mục
đích tôi muốn gửi gắm đến người đọc, những người quan tâm, để cùng chiêm nghiệm
thêm, nếu như được tiếp xúc với gốm Việt Nam nói chung và gốm Cù Lao Chàm nói
riêng.
Hình ảnh và thiết kế của đồ gốm cổ Cù
Lao Chàm thể hiện cuộc sống con người cung cấp kiến thức và hiểu biết về cuộc sống
làm việc và sinh hoạt hàng ngày của người dân, cảm xúc và hành vi, tương tác của
con người, thời trang và văn hoá thế kỷ 15 của người dân Đại Việt - Một nhóm
người khao khát tự do, bình an và lạc quan, những người yêu cuộc sống, cuộc sống
và công việc của họ cũng như bản chất tươi đẹp của Việt Nam.
Nhận xét
Đăng nhận xét