LỊCH SỬ GỐM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN THỜI LÝ TRẦN
Ngày xưa, nước Đại Việt ta nổi tiếng về gốm sứ, các làng làm
gốm sứ cũng từ từ mọc lên và trở thành như một truyền thống của dân tộc. Nhưng
ít ai biết được, trong thời kỳ xưa khó khăn ở nước Nam ta, mặc dù cái nghề gốm
này vẫn còn rất cổ và mộc mạc, nhưng vào 1 giai đoạn, nghề gốm này được phát
triển vượt bật tối tân nhất, giai đoạn thời Lý – Trần, còn được gọi là thời kỳ
VÀNG của gốm sứ Việt Nam.
Cái thời kỳ thăng hoa nhất trong lịch sử
gốm sứ Việt Nam, không thể không nhắc đến đó là thời đại này. Tại vì sao mà khi
nhắc đến gốm sứ, dân tộc ta liền nhớ ngay đến thời kỳ VÀNG này? Đó là vì, theo
nghiên cứu cho đến ngày nay, chưa bao giờ có thời điểm nào mà gốm sứ Đại Nam
phát triển một cách dữ dội như ở thời Lý-Trần. Một thời gian vô cùng dài cho
giai đoạn này, 2 thời kỳ này kéo dài gần 400 năm, mặc dù mỗi thời kỳ là một
phong cách riêng biệt, một tư duy nghệ thuật đặc trưng cho mỗi thời, nhưng có lẽ
cách thức phương pháp kỹ thuật làm gốm đều có những điểm chung giống nhau.
Nếu như kiến trúc và điêu khắc thời
Lý – Trần còn chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Champa và không ít công trình có
người Champa tham gia xây dựng, thì gốm Lý – Trần không có đặc điểm gì chung
với gốm Champa, và có thể nói gốm Champa không có gì để so sánh với gốm Lý –
Trần. Người Champa quan tâm không nhiều đến nghệ thuật gốm, gốm với họ cốt chỉ
để đựng tạm thời.
Giữa gốm thời Lý và gốm sứ Đường Tống Trung Hoa có nhiều đặc điểm chung về thẩm mỹ và kỹ thuật, nhất là phong cách nghệ thuật Lý rất gần gũi với phong cách nghệ thuật Đường, trong khi đó gốm thời Trần là cái gì đó rất riêng biệt, đặc biệt là gốm hoa nâu. Ở Trung Hoa người ta không tìm thấy được cái gì tương tự. Thực ra thì gốm Lý – Trần cũng không rơi từ trên trời xuống và không phải phát triển từ mảnh đất tưởng chừng như trống không của thời Bắc thuộc. Các kỹ thuật gốm đất nung và gốm mộ Hán trước thời Lý cũng được thời Lý tiếp thu rất sáng tạo.
Giữa gốm thời Lý và gốm sứ Đường Tống Trung Hoa có nhiều đặc điểm chung về thẩm mỹ và kỹ thuật, nhất là phong cách nghệ thuật Lý rất gần gũi với phong cách nghệ thuật Đường, trong khi đó gốm thời Trần là cái gì đó rất riêng biệt, đặc biệt là gốm hoa nâu. Ở Trung Hoa người ta không tìm thấy được cái gì tương tự. Thực ra thì gốm Lý – Trần cũng không rơi từ trên trời xuống và không phải phát triển từ mảnh đất tưởng chừng như trống không của thời Bắc thuộc. Các kỹ thuật gốm đất nung và gốm mộ Hán trước thời Lý cũng được thời Lý tiếp thu rất sáng tạo.
Theo các tài liệu truyền thuyết và
lịch sử, cho đến thời Lý – Trần, gốm đã có ba trung tâm, mà còn tồn tại cho đến
ngày nay, đó là làng gốm Bát Tràng, Phù Lãng và Thổ Hà, riêng làng Thổ Hà thì
ngưng làm gốm đầu thế kỷ 20. Ba làng này do ba vị đại quan thời Lý – Trần là
Đào Tiến Trí, Hứa Vĩnh Kiều và Lưu Phong Tú do đi sứ ở Trung Hoa học được nghề
gốm mà truyền lại do dân làng. Bát Tràng thì sản xuất gốm sắc trắng, Thổ Hà gốm
sắc đỏ, Phù Lãng gốm sắc vàng. Gốm sắc đỏ chính là đồ sành men nâu và đồ sành
đất nung thô, gốm sắc vàng chính là gốm sành men da lươn. Riêng gốm sắc trắng
chính là gốm men trắng và men trắng vẽ hoa lam của Bát Tràng. Loại gốm vẽ hoa
lam xuất hiện nhiều vào thời Trần và được nâng thành đỉnh cao ở thời Lê sơ thế
kỷ 15.
Địa bàn có thể khảo cổ được của gốm
Lý – Trần rất rộng, nhưng tập trung chủ yếu vào các tỉnh đồng bằng: Quảng Ninh,
Hải Phòng, Hải Dương, Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, Thanh Hóa và Hà Nội. Đặc
biệt trong các mộ chí vùng Mường xưa kia từ Lương Sơn hắt lên thị xã Hòa Bình
cũng có nhiều gốm Lý – Trần chôn theo người chết. Theo Dư địa chí của Nguyễn
Trãi, thì làng Bát Tràng hằng năm sản xuất gốm, đem bán mối lợi rất to, điều đó
chứng tỏ, gốm Lý – Trần là mặt hàng thương mại quan trọng của hai thời đại đó.
Trên một cái đĩa men ngọc thời Lý ở bảo tàng Lịch sử Việt Nam có vòng chữ thành
hình tròn: Tố xuất phù dung dạng thanh khí/ Mại mãi khách nhân giai phú quý
(Sản xuất đĩa gốm men ngọc vẽ hoa phù dung/ Khách mua bán đều là người phú
quý). Chiếc đĩa này cho biết một thông điệp về tình hình thương mại đồ gốm có
vẻ phát đạt vào thời Lý và con người thời đó không chỉ dùng đồ gốm để ăn uống
thông thường mà nhu cầu thưởng ngoạn vẻ đẹp của món đồ cũng hết sức quan trọng.
Không có đồ gốm Lý – Trần nào mà không đẹp, dường như cái đẹp là nhu cầu rất
phổ biến của thời này, một chiếc chậu mà chúng ta nâng niu yêu thích thì vào
thời đó chắc chỉ để rửa chân mà thôi, những chiếc thạp hoa nâu lớn bây giờ là
một tài sản đáng giá thì vào thời Trần nó chỉ có chức năng như chiếc tiểu cải
táng thông thường của người Việt.
Gốm Lý – Trần dù rất sang trọng
nhưng dường như không có sự phân biệt giữa Quan diêu và Dân diêu, cách thức
phân biệt của người Trung Hoa về loại gốm sứ dành cho vua quan và cho dân thường,
được chế tác và nung từ hai cơ sở khác nhau, chất lượng khác nhau hoàn toàn.
Cũng theo Nguyễn Trãi, thì các lò gốm trong nước hằng năm chọn những món đồ tốt
nhất dâng lên triều đình, như vậy về căn bản không có sự phân biệt hoàn toàn
giữa gốm dân gian và gốm nội phủ (dành cho vua chúa quý tộc). Gốm Đại Việt chủ
yếu phân biệt ở chất lượng của từng sản phẩm, đặc biệt là cách nung hàng loạt
dùng viên sỏi kê lòng, nên từng cái bát, cái đĩa đều có dấu ấn của ba đến năm
vệt sỏi giữa lòng, còn đĩa bát chất lượng hơn thì lòng trơn, nghĩa là không kê
một chồng mà nung từng chiếc một. Khi khảo cổ học đào bởi di tích Hoàng thành
Thăng Long, đã tìm được những chồng bát nung dính vào nhau, người ta cho rằng
ngay trong thành cổ có những lò gốm và như vậy thì bát dùng thông thường của
quý tộc cũng không nhất thiết là phải nung từng cái một.
Gốm trắng nổi lên là loại gốm phổ
thông, nhưng rất tinh nhã của thời Lý. Chúng được làm với nghệ thuật bàn xoay
rất cao, dáng vuốt to nhỏ chênh lệch ngay trong đồ gốm rất lớn, thành gốm rất
mỏng chứng tỏ một trình độ tạo hình thành thạo. Hình dáng thường là các loại
bát nở miệng, thắt lại rất nhỏ ở chân đáy; những chiếc âu đủ các loại các cỡ,
cái thì giống như bát khất thực của nhà sư, cái thì rộng lòng như quả dưa lớn;
những chiếc đĩa đựng cong thành; những chiếc ấm hình quả dưa có vòi và quai,
nắp rất cân đối. Men bên ngoài thành gốm, có lẽ đương thời rất trắng, nay tìm
được từ lòng đất lâu năm ngả thành màu vàng nhạt hoặc vàng ngà, rất trong,
bóng, và mỏng. Phần lớn các gốm trắng không có chút hoa văn nào, tự dáng hình
và chất lượng men tạo ra vẻ đẹp của nó.
Gốm đen có một vẻ đẹp giản dị mà
mạnh mẽ khác, thường đi với các loại đồ gia dụng loại nhỏ, những bát loe miệng
có bôi màu đen như nước mật, đặc biệt là những bát màu đen có trang trí hoa văn
chân chim. Những hoa văn này được in khéo tới mức, người ta có cảm tưởng người
thợ dùng một cái chân chim ấn vào lòng bát, hay giống như một con chim đi qua
lòng bát khi nó còn đang ở dạng đất ướt. Thực ra màu đen của gốm đen là biến
thể của gốm hoa nâu, các ôxít sắt dùng làm màu vẽ có biến dạng màu khá phong
phú, tùy theo độ nung như thế nào.
Ảnh 2. Đồ gốm thời Lý - Trần |
Đỉnh cao của gốm Lý được xác định là
gốm men ngọc, khái niệm chữ Hán gọi là Thanh khí (đồ men xanh), người phương
Tây gọi là gốm Celadon. Đặc điểm của gốm men ngọc có màu xanh ngọc bích và
nhiều biến sắc của màu xanh đó. Men ngọc tạo ra nhiều cảm giác thẩm mỹ trái
ngược, men rất trong nhưng nhìn thì rất đục, thành gốm dày nặng nhưng cảm giác
rất mỏng nhẹ, hoa văn chìm (ám họa) nhưng nhìn rất nổi và tiếng gõ nghe trong
trẻo như tiếng ngọc. Tất nhiên từ gốm men ngọc đến sứ men ngọc có một khoảng
cách lớn về các giá trị thẩm mỹ khác nhau. Giữa gốm men trắng và gốm men ngọc
có mối quan hệ qua lại mật thiết và vô số sản phẩm trung gian hình thành.
Con người thời Lý rất sang trọng, đồ
đạc của họ nói lên điều đó. Chúng ta không biết người thời Lý ăn những món gì,
nhưng đồ đựng của các món ăn cho thấy họ có cuộc sống lịch thiệp quý phái, có
sự tinh tế mà đơn giản. Những chiếc bát hình bông hoa sen, hoa súng được chuốt
các lớp cánh hoa nổi nhẹ lên thành gốm, miệng lượn cong hoặc trổ khuyết nhẹ
từng điểm cách đều nhau, cầm cái bát trên tay mà như hứng một đóa hoa đang nở.
Những chiếc ấm men trắng và hoa nâu thời Lý vừa đúng công dụng tùy từng kích
cỡ, vừa đẹp mỹ mãn. Có những chiếc ấm tu chỉ nhỏ như quả quít, tức là người ta
dùng cái ấm đó để uống luôn chứ không cần rót nước ra chén. Những chiếc ấm pha
trà, đựng rượu có thể tích lớn như quả dưa bở hình khối rất nở nang, chân thắt
nhỏ lại miệng loe cao và vòi nhỏ như một núm nổi trên thành mặt cong. Lại có cả
những đồ đựng chiêu rượu hình con vẹt, hình tiên nữ đầu người mình chim (con
Kinnari), mà lại có cả một đôi đực cái. Đồ đựng phấn là một chiếc hộp hai nửa
chạm nổi cánh sen bên trong trổ hoa cúc dây, các quý cô quý bà sẽ nhón chút
phấn hoa từ đó mà thoa lên má… Chỉ có những xã hội phát triển có tính tổ chức
cao, lấy đạo Phật di dưỡng tinh thần, mới có thể sinh ra được những sản phẩm
phổ biến và đặc trưng như vậy. Trong xã hội đó không có chỗ cho sự phàm ăn tục
uống, sự nhỏ nhen và tỵ hiềm, một xã hội có vẻ rất bình an và đi tới bình an.
Xã hội Lý và xã hội Trần có nhiều
vấn đề cách biệt, nhất là khi nhà Trần phải ba lần vất vả chống Nguyên Mông,
một thế lực hùng mạnh trên thế giới lúc bấy giờ. Nhà Trần phải giải quyết nhiều
mặt về tinh thần xã hội đối với sự thay đổi của Phật giáo sao cho thích hợp với
thời cuộc, và giữ sự cân bằng cho đời sống dân sinh. Cái không khí hùng tráng
của những trận đánh chống Nguyên Mông tạo ra âm hưởng cho nhiều nghệ thuật và
văn thơ, trong đó có gốm. Gốm thời Trần bớt đi vẻ tinh nhã của gốm Lý, thay vào
đó là sự bề thế, mạnh mẽ, cái đẹp của trí lực. Những chiếc bát chân cao cho
thấy người cầm nó cũng cần phải khỏe tay, những chiếc thạp gốm khắc hình hoa
sen và bôi màu nâu với hình khối lớn kết hợp hình dáng hoa quả và hoa sen, trở
nên độc đáo không thời nào có được. Gốm hoa nâu thời Trần có vẻ gần gũi với
nghệ thuật tạo hình hơn là đồ gốm có công năng.
Ảnh 3. Hình ảnh gốm thời kỳ Lý - Trần |
Tục hỏa táng và cải táng có lẽ phổ
biến trong tang ma của người Việt thời Trần. Cải táng mang tính truyền thống
của dân Việt cổ, và hỏa táng do ảnh hưởng của Phật giáo từ Ấn Độ. Những chiếc
thạp gốm lớn chính là một đồ vật dùng trong nghi lễ cải táng, nghĩa là sau khi
bốc mộ, hoặc thiêu, thì cốt hay tro hài của người chết sẽ được đựng trong những
chiếc thạp. Đôi khi người ta làm hai cái thạp lồng vào nhau, cái to đựng cái
bé, cái bé đựng di hài. Những chiếc tháp kép được làm rất cầu kỳ: một tiêu bản
của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cho thấy thạp nhỏ được nung trước (nung tới đâu,
còn chưa biết), sau đó đặt thạp nhỏ vào trong thạp lớn chưa nung, rồi nung cả
hai. Quá trình nung cả hai như vậy đôi khi hai sản phẩm co ngót khác nhau và
làm hỏng cả hai. Đây là một kỹ thuật khá cao. Cốt gốm hoa nâu đương nhiên rất
dày so với gốm trắng và gốm men ngọc, và với nhiều đồ đựng lớn, gốm hoa nâu
được cấu tạo nhiều phần lắp ghép: nắp – miệng – vai – thân – chân đế. Xu hướng
sản xuất chuyên nghiệp và tạo hình đơn giản quán xuyến nền gốm thời Trần.
Trong
cốt gốm Lý – Trần thành phần gồm cao lanh và đất sét, hàm lượng cao lanh chỉ
chiếm 50% đến 60%; khi nung ra, màu của đất khá xám chứ không được trắng như
gốm Hồng Kông (mỏ cao lanh nằm ở Giang Tây, được coi có chất lượng tốt nhất thế
giới, đến mức chẳng cần bất kỳ một máy móc nào để khử từ – loại bỏ các nguyên
tố sắt trong đất cả). Mỏ đất sét trắng ở Việt Nam cho loại cao lanh trung bình,
và có ở mỏ Trúc Thôn (Hải Dương), Giếng Đáy (Quảng Ninh). Về chất lượng cao
lanh như vậy, gốm Đại Việt không tài nào nâng lên thành đồ sứ được cả. Muốn
nung thành đồ sứ, trong nguyên liệu phải có đá bạch đôn tử, theo như Vương Hồng
Sển, trong cuốn Khảo về đồ sứ cổ Trung Hoa, tỷ lệ pha trộn là 75% cao lanh, 25%
bạch đôn tử. Cốt gốm Lý – Trần cũng được pha thêm bã thực vật, sau khi thành
phẩm, cốt tương đối xốp và nhẹ. Người ta cho rằng do đặc điểm của cốt gốm không
bạch đôn tử như vậy, nhiệt độ nung của gốm Lý – Trần chỉ đạt tối đa là 1.200 độ
C, nên lò nung nhiệt cao là không cần thiết, nếu cốt gốm đó mà nung trên 1.270
độ C thì cấu trúc dễ vỡ hoặc giòn quắt, hoặc tự vỡ. Theo phán đoán thì nhiệt độ
nung của gốm Lý – Trần đạt từ 1.100 độ – 1200 độ C.
Men trắng gốm Lý – Trần được chế từ
phù sa và tro củi; men nâu từ oxit sắt và sunfua thủy ngân; men ngọc từ oxit
sắt và oxit đồng. Trên gốm hoa nâu, người ta thường gạt đi một số chỗ men trắng
để bôi màu nâu, có thể làm theo hai cách: nền trắng hoa văn nâu, hoặc ngược lại
nền nâu hoa văn trắng. Màu nâu chế tạo từ đá son, bản chất của màu nâu đỏ và đen
chế từ các oxit sắt và một thành phần nữa là sunfua thủy ngân, cái này nằm
trong đá chu sa, thần sa, màu đen cũng chỉ là biến thể của màu nâu. Màu lục của
gốm men ngọc do sự tham gia của oxit đồng, nhưng ít hơn nhiều so với sử dụng
oxit sắt và oxit đồng tạo ra màu xanh khi nung trong môi trường oxy, thực chất
là oxit sắt được nung trong môi trường khử, tức là môi trường thiếu oxy, tạo ra
lửa hoàn nguyên. Công thức thì đơn giản như vậy, nhưng gốm luôn luôn là bí ẩn,
phụ thuộc vào nhiệt độ lò nung tạo ra các phả ứng hóa học cụ thể với cốt và men
gốm, cùng kinh nghiệm của người thợ. Kết quả của sản xuất gốm thủ công không
lần nào giống lần nào, chỉ có thể tạo ra các sản phẩm tương tự chứ không lặp
lại chính xác như gốm sứ công nghiệp. Các sắc độ màu trên đồ gốm Lý – Trần, ra
rất phong phú, nhìn thoáng qua thì thấy giống nhau, nhưng đặt cạnh từng đồ, màu
sắc rất khác. Màu men ngọc biến đổi từ xanh ngọc bích, xanh lục nhạt, lục sẫm,
lục vàng, lục tím, tím xanh thẫm. Màu trắng cũng biến đổi vô cùng, trắng, trắng
nhờ nhờ, trắng ngả vàng, trắng ngả xanh nhạt, trắng vàng, vàng và vàng sẫm. Màu
nâu có từ nâu đỏ, nâu vàng, nâu nhạt, nâu đậm, màu nâu bánh mật, nâu sẫm, nâu
rất sẫm, nâu đen và đen.
Thời đại ngày nay, không ít người đã cố gắng khai quật lại
những cổ vật, những bức điêu khắc hay những sản phẩm gốm từ 2 thời đại Lý-Trần,
những bậc cao niên nghề gốm cùng với những nghệ nhân tài hoa đều công nhận sự độc
đáo tuyệt đối từ kỹ thuật đến mỹ thuật kĩ miều hoàn hảo của từng sản phẩm gốm.
Có nhiều người đã làm lại một vài sản phẩm của 2 thời đại này và những sản phẩm
ấy thực sự khiến người ta trầm trồ, mặc dù có một vài sản phẩm mà những nghệ
nhân ngày nay không thể phục chế lại bởi vì sự nghệ thuật quá độc đáo và hiếm
có của nó, có thể là vì chất lượng gốm của nó khó mà có thể làm lại được so với
trình độ cao và khác biệt của thời đại xưa. Những con người tài hoa tinh tế bằng
sự thong minh của mình đã tạo ra những sản phẩm khiến chúng trở nên thành những
kiệt tác, không chỉ là kiệt tác ngày xưa, mà chúng còn là những kiệt tác lưu lại
cho đến ngày nay.
Nhận xét
Đăng nhận xét